Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng Christopher Columbus không hoàn toàn là người đầu tiên đặt chân lên lục địa Châu Mỹ mà John Cabot, một nhà thám hiểm người Genoa cùng thời, có thể là người nên được ghi nhận cho thành tựu này.
Hai nhà thám hiểm Christopher Columbus và John Cabot đều có thể được ghi nhận là người có công khám phá ra Thế Giới Mới nhưng trớ trêu là chỉ một trong hai người nhận được sự ghi nhận, tiền tài và danh vọng trong khi người kia hoàn toàn không có được điều đó. Trong bối cảnh thế kỷ 15 với Châu Âu đang hướng mắt về những người Bồ Đào Nha sau nhiều chuyến phiêu lưu tìm ra được con đường giao thương với Ấn Độ về phương Đông bằng việc men theo đường biển dọc Châu Phi, hai nhà thám hiểm vĩ đại này lại đi một con đường khác về phía Tây. Điều này tình cờ giúp loài người phát hiện ra Châu Mỹ, vốn là một trong những cột mốc có tác động rất lớn đến dòng chảy lịch sử.
Christopher Columbus hướng mắt về phía tây
Trước khi ra khơi, Columbus đã có ý tưởng đi về phía Tây khi chịu ảnh hưởng từ nhà thiên văn học Paolo Toscanelli, người cho rằng đây là một tuyến đường khác để đến phương Đông. Ông phát triển kế hoạch mang tên “Enterprise of the Indies”, nhưng các tính toán của ông gặp sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp kích thước Trái Đất và khoảng cách mỗi độ kinh tuyến. Lần đầu tiên vào năm 1485, vua John II của Bồ Đào Nha đã từ chối tài trợ cho chuyến đi của ông. Lần thứ hai, ông lại tính toán thời điểm không đúng khi Bartolomeu Dias vừa tìm được Mũi Hảo Vọng và người Bồ Đào Nha gần như thành lập được con đường giao thương hàng hải với phương Đông. Sau hai lần bị từ chối, Columbus thuyết phục được vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella của Tây Ban Nha vào năm 1492, khi họ đang cần tìm nguồn tài sản mới sau chiến dịch chinh phục Granada, vốn được coi là thành luỹ cuối cùng của người Hồi Giáo tại bán đảo Iberia.
Ngày 3 tháng 8 năm 1492, Columbus khởi hành với ba con tàu: Santa María, Pinta và Niña. Mười tuần sau, vào ngày 12 tháng 10 năm 1492, họ nhìn thấy đất liền ở hòn đảo Bahamas. Columbus tiếp tục khám phá và phát hiện Cuba, Hispaniola và nhầm tưởng hai khu vực này là là Trung Quốc và Nhật Bản. Tàu Santa María bị đắm gần Haiti do sự bất cẩn của thủy thủ đoàn say rượu. Ông xây dựng pháo đài La Navidad từ gỗ của tàu đắm và để lại 39 người để thành lập thuộc địa.
Chuyến đi thứ hai vào tháng 9 năm 1493 đưa Columbus trở lại với khoảng 1.200–1.500 người định cư trên 17 con tàu để mở rộng thuộc địa. Tuy nhiên, ông phát hiện tất cả người ở La Navidad đã bị giết bởi người bản địa. Columbus thành lập La Isabela ở Cộng hòa Dominica nhưng đối mặt với sự bất mãn từ người định cư vì lời hứa giàu có không được thực hiện. Ông để lại hai người anh em quản lý thuộc địa và tiếp tục khám phá Lesser Antilles, Puerto Rico, Jamaica và Cuba, nhưng chuyến đi này không đạt được lợi nhuận như kì vọng.
Chuyến đi thứ ba diễn ra khi Vasco da Gama đã thành công vòng qua châu Phi đến Ấn Độ. Tây Ban Nha cử Columbus và thúc đẩy việc tìm kiếm một eo biển kết nối Tân Thế Giới với đại dương chưa biết ở phía bên kia, cùng mục tiêu cuối cùng là đến Ấn Độ. Columbus đến Trinidad và sau đó là Nam Mỹ (Venezuela) vào tháng 8 năm 1498, nhận ra đây là một lục địa chứ không phải bán đảo như kỳ vọng. Ông nỗ lực quay trở lại La Isabela để kêu gọi sự hỗ trợ. Tuy nhiên, ông nhận ra rằng người định cư đã nổi loạn vì bị lừa dối về sự giàu có ở Tân Thế Giới, cùng chế độ cai trị tàn bạo của anh em ông. Columbus khôi phục trật tự bằng biện pháp mạnh mẽ nhưng bị điều tra bởi chính quyền Tây Ban Nha và vào năm 1500, ông bị xiềng xích đưa về nước.
Dù bị thất sủng sau chuyến đi thứ ba, Columbus vẫn được cử đi chuyến thám hiểm thứ tư vào tháng 5 năm 1502 để tìm lối đi đến châu Á và thu thập vàng bạc. Đoàn tàu bốn chiếc gặp nhiều khó khăn như bão tố và xung đột với người bản địa. Columbus khám phá một phần Trung Mỹ, bao gồm Honduras, Nicaragua, Costa Rica và Panama, nhưng không tìm thấy eo biển dẫn đến châu Á. Chuyến thám hiểm kết thúc khi ông mắc kẹt ở Jamaica gần một năm trước khi được giải cứu vào năm 1504. Ông trở về Tây Ban Nha mà không đạt được lợi nhuận đáng kể và qua đời vào năm 1506.
Hành trình của John Cabot: âm thầm đặt chân đến lục địa Châu Mỹ
John Cabot là một nhà thám hiểm gốc Genoa, từng sống ở Venice, nhưng tên tuổi của ông ít được biết đến hơn so với Christopher Columbus. Giống như Columbus, ông cũng đã ra khơi về phía Tây nhưng sớm hơn với nhiệm vụ được vua Henry VII của Anh giao phó. Ông khởi hành từ Bristol vào tháng 5 năm 1497 trên con tàu Matthew. Đến ngày 24 tháng 6 năm 1497, Cabot đặt chân lên vùng đất ngày nay là Canada, trở thành người châu Âu đầu tiên được biết đến đã đặt chân lên đất liền Bắc Mỹ kể từ thời Viking. Trong khi đó, Columbus không đến đất liền Nam Mỹ mãi đến đến chuyến đi thứ ba vào năm 1498 và chưa bao giờ đặt chân lên Bắc Mỹ. Vùng đất mà Cabot cập bến sau này được gọi là Newfoundland.
Tuy nhiên, vị trí chính xác địa điểm mà Cabot cập bến vẫn chưa rõ ràng. Giả thuyết phổ biến nhất là Cape Bonavista ở Newfoundland, nhưng các khả năng khác bao gồm Nova Scotia, Labrador hoặc Maine.
Sau chuyến đi này, Cabot thực hiện một chuyến đi thứ hai vào tháng 5 năm 1498. Ông rời Bristol với năm con tàu, lớn hơn nhiều so với chuyến đi trước. Đoàn tàu này bao gồm các tu sĩ và đủ lương thực cho hành trình dài. Một trong số các tàu được cho là đã bị hư hỏng trong bão và phải bỏ lại ở Ireland. Điều đặc biệt là sau khi khởi hành, số phận của Cabot trở nên mơ hồ. Trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà sử học đã cho rằng ông đã mất tích trên biển do không có ghi chép nào cụ thể về sự trở lại hoặc những khám phá của ông.
Tuy nhiên, nhà sử học Alwyn Ruddock lại đề xuất rằng Cabot không chỉ biến mất mà thực tế đã khám phá toàn bộ bờ đông Bắc Mỹ và tuyên bố chủ quyền cho Anh Quốc. Bà tin rằng ông có thể đã đi xa đến Nam Mỹ và gặp thuyền trưởng Alonso de Ojeda, một người đồng nghiệp của Columbus. Tuy nhiên, những khám phá này có thể vi phạm Hiệp ước Tordesillas (1494), hiệp ước chia đôi Tân Thế Giới giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Vua Henry VII của Anh lúc đó đang đàm phán hôn nhân giữa con trai ông – Arthur – và Catherine của Aragon (con gái Ferdinand và Isabella), vì vậy việc công khai thành tựu của Cabot có thể gây tổn hại cho các nỗ lực ngoại giao này.
Ruddock tin rằng Cabot đã âm thầm trở lại Bristol vào năm 1500 và qua đời ngay sau đó. Tuy nhiên, bà không công bố những phát hiện của mình và yêu cầu tiêu hủy tất cả nghiên cứu sau khi qua đời vào năm 2005, để lại nhiều khoảng trống trong hiểu biết về chuyến đi cuối cùng của ông.
Từ năm 2009, các nhà nghiên cứu tại Đại học Bristol đã nỗ lực tái dựng câu chuyện của Cabot dựa trên các bằng chứng còn sót lại nhằm khám phá đầy đủ những chuyến đi và thành tựu của ông.
Christopher Columbus và John Cabot: hai nhà thám hiểm dũng cảm, nhưng lịch sử chỉ ghi danh một người
Rất ít nhân vật nào trong lịch sử có được di sản đặc biệt và có phần đối lập như cách Christopher Columbus có được. Ông là một thuỷ thủ tài năng với kiến thức sâu rộng về hướng gió trên biển. Người Bồ Đào Nha hay dùng từ “volta do mar - turn of the sea” để chỉ những ngọn gió giao thương này và Columbus là người có khả năng hiểu rõ những ngọn gió này để lèo lái con tàu của mình khám phá những vùng đất mới. Ông được ghi danh là người tìm ra Châu Mỹ, thế giới mới mặc dù chính ông phủ nhận điều đó suốt cả cuộc đời.
Tuy nhiên, điều này không phủ nhận rằng các chuyến đi của Columbus có tác động lịch sử sâu sắc, mang lại sự giàu có và quyền lực cho Tây Ban Nha dưới thời Ferdinand II và Isabella I. Những khám phá của ông đặt nền móng cho sự mở rộng của đế chế Tây Ban Nha, đồng thời mang lại cho ông sự giàu có, danh tiếng và sau đó là sự kết thúc trong thất bại và ô nhục cùng với những tranh cãi cay đắng về quyền lợi. Tuy thế, lịch sử luôn biết đến ông là người đầu tiên khám phá ra lục địa Châu Mỹ dù những năm gần đây hình ảnh của ông bị vấy bẩn bởi những bằng chứng về hành động tàn ác của ông với những người dân bản địa và người định cư.
Còn với John Cabot, những đóng góp của ông bị lãng quên. Thành tựu của ông mang tính đột phá khi tạo tiền đề để Anh Quốc chiếm giữ Bắc Mỹ và thiết lập nền tảng thuộc địa tại đây, cũng như mở đường cho những chuyến thám hiểm khác sau này, cùng với việc khai thác nguồn tài nguyên dồi dào tại đây. Tuy nhiên, ông không được đánh giá cao trong suốt cuộc đời mình và bị chìm vào quên lãng. Khi tìm ra Newfoundland, ông chỉ được vua Henry VII thưởng cho ông một khoản tiền nhỏ là £10 ít ỏi vào thời đó, và một khoảng trợ cấp hằng năm là £20. Trái ngược hoàn toàn với cuộc đời của Columbus. Điều này phần nào đó thể hiện sự bất công của lịch sử trong cách ghi nhận công sức của mỗi cá nhân.