Cầm máy một tay không bị lệch trọng tâm về phía trước, chí ít là với chiếc ống kính mà tụi mình sử dụng thường xuyên nhất để sản xuất video, 24-120mm f/4 S. Ngay cả khi không có báng cầm như những chiếc máy mirrorless hybrid truyền thống, mà không đâu xa chính là Z6 III, phần cao su bọc thân máy để chống trượt vẫn đủ tốt:

Và cũng vì không có thiết kế báng cầm theo kiểu truyền thống, nên pin EN-EL15c quen thuộc với anh em chơi máy ảnh Nikon lắp vào máy sẽ xoay ngang, giống như Zf, thay vì xoay dọc như body những chiếc máy khác:

Cũng trong khe lắp pin, là hai khe thẻ nhớ CFexpress Type B và microSD. Cái khe cắm microSD nói chung cũng khiến anh em tranh cãi suốt từ lúc chiếc máy được giới thiệu. Đúng là mình cũng muốn có một khe thẻ nhớ SD full size, nhưng trải nghiệm với Zf cho thấy, khe cắm thẻ nhớ SD dùng lưu trữ hình chụp RAW chất lượng Fine vẫn ổn, chí ít là với những thẻ nhớ microSD cao cấp.
Nhưng chuyện đó có lẽ không quan trọng lắm với anh em làm video, vì CFexpress Type B mới là thứ chúng ta cần để lưu trữ video, trong trường hợp của tụi mình, là H.265 10-bit, hoặc ProRes 422 10-bit.
Điểm nhấn đương nhiên vẫn là cái màn hình 4 inch, độ phân giải 1280 x 800 pixel 16:10, độ sáng tối đa 1000 nits. Cái này chắc chắn sẽ là khác biệt khi đem quay ngoài trời so với Z6 II hay Z8 hiện tại của tụi mình. Màn to, kết hợp với menu điều chỉnh trên màn hình cảm ứng, có khi chẳng cần dùng joystick 4 chiều trên thân máy, mà chỉ cần chạm vào màn hình là xong.
Còn ở cạnh trên, là những nút điều khiển, ngàm hotshoe kết nối digital, hai cái microphone với khả năng ghi âm 32-bit float, cùng hai bánh xe điều chỉnh:
Thử dùng quay nhanh vài món đồ chơi, bánh xe mặt trước vẫn giống trải nghiệm sử dụng Z8, đó là thay đổi khẩu độ ống kính ở chế độ M. Bánh xe mặt sau sẽ thay đổi tốc độ màn trập. Đương nhiên anh em vẫn sẽ có thể thay đổi tính năng điều khiển của hai bánh xe này ở menu tùy chỉnh, hoặc kết hợp chúng với một trong ba nút bấm trên thân máy. Nhưng với anh em quay phim, với hai mốc base ISO 800 và 6400, một cho ban ngày và một cho môi trường thiếu sáng, thì mặc định hai bánh xe điều chỉnh tốc độ màn trập và khẩu độ ống kính là lựa chọn phù hợp.
Hai microphone cho phép thu tiếng với format 32-bit float, dải động của âm thanh rất rộng để hậu kỳ sau này. Nhưng đương nhiên vẫn sẽ có lúc cần microphone rời để thu lại giọng nói của nhân vật chính. Đấy là lúc sẽ cần tới những microphone với receiver kết nối digital, hoặc nếu không, vẫn còn cổng 3.5mm.
Cạnh bên vẫn là những kết nối quen thuộc: 3.5mm microphone, 3.5mm audio để kiểm tra âm thanh máy ghi lại được, rồi đến cổng micro HDMI, và một cổng USB-C, vừa dùng sạc, vừa có thể kết nối lấy dữ liệu từ thẻ nhớ copy về máy tính. Có lẽ giới hạn kích thước chassis của máy khiến chúng ta thậm chí còn không có được một cổng mini HDMI, chứ đừng nói tới full size như Z6 III và Z8:
Một giới hạn khác cho các nhà làm phim hay sản xuất nội dung video, là chúng ta sẽ chỉ có một lỗ ốc ¼"-20 ở mặt đáy. Lựa chọn cage và phụ kiện lên rig cũng sẽ bị giới hạn theo đó. Nhưng với những người làm nội dung như tụi mình, lắp plate bỏ máy lên tripod hoặc gimbal là chính, thì khả năng cao là sẽ không phải vấn đề làm đau đầu.
Những bàn luận hay tranh cãi về khả năng hay định hướng khách hàng của Nikon ZR giờ nhiều vô kể rồi. Mình thì muốn sử dụng máy thực tế, không phải dùng thử, mà dùng thật, đi quay từ studio tới ngoài trời, nên có lẽ sẽ vào việc luôn. Khi ấy mới có những chia sẻ thực tế và sát nhất về cả những codec mà Nikon ZR có thể phục vụ, lẫn cả những ưu và nhược điểm của form factor vuông vắn mà Nikon ứng dụng với ZR, hay quan trọng hơn, đó là quay 4K ngoài trời bao lâu thì quá nhiệt…