Từ Indonesia đến Mỹ Latin và Caribe, những người lao động bị bắt làm nô lệ để đến các đồn điền trồng cà phê. Theo thống kê vào cuối những năm 1700, thuộc địa Saint Domingue của Pháp ở vùng Caribe từng sản xuất ⅔ sản lượng cà phê toàn cầu. Sau này, cách mạng Haiti bùng nổ vào năm 1791 đã làm các đồn điền bị thiêu rụi và khiến nhiều chủ sở hữu đồn điền thiệt mạng.

Về sau, người Bồ Đào Nha đã biến Brazil trở thành nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới. Brazil là quốc gia đưa số lượng nô lệ đến Tân Thế giới nhiều nhất và cũng là nước cuối cùng ở Tây bán cầu bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1888. Thậm chí vào những năm 1880, khi đối diện với các dự luật trao quyền tự do cho con cái của nô lệ, một nghị sĩ Brazil bên phe phản đối còn từng tuyên bố: “Brazil là cà phê và cà phê là người da đen.”

Các quán cà phê đầu tiên được cho là xuất hiện ở Đế chế Ottoman, nơi những người Hồi giáo, những người kiêng rượu, có được một nơi để tụ tập ngoài các quán rượu. Qua nhiều thế kỷ, quán cà phê trở thành “không gian công cộng”, nơi mà không chỉ giới tinh hoa mà mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể đến gặp gỡ và trao đổi với nhau.
Từ TK 16, người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman đã mang cà phê đi truyền bá khắp nơi, cho những người Hồi giáo và sau đó là đến châu Âu. Đã từng có thời kỳ, quán cà phê là nơi để đàn ông có thể tụ tập và thảo luận về tin tức, tôn giáo, chính trị, mà không bị các nhà chức trách giám sát. Châu Âu từng tìm cách cấm các quán cà phê, nhưng lệnh cấm này nhanh chóng bị dỡ bỏ bởi sự phản đối dữ dội từ công chúng.

Tại châu Âu, quán cà phê trở thành “cái nôi” cho nhiều ý tưởng kinh tế và chính trị mới. Sàn giao dịch chứng khoán London, hãng bảo hiểm Lloyd’s of London và Công ty Đông Ấn đều bắt nguồn từ các quán cà phê. Ở London, chúng thậm chí còn được gọi là “đại học một xu” vì chỉ cần mua một tách cà phê là bạn đã có thể tham gia vào những cuộc tranh luận học thuật sôi nổi.